Phân biệt giữa màn hình cảm ứng điện trở và màn hình cảm ứng điện dung
Quản
Trị Mạng - Mặc dù có thể chưa đầy đủ nhưng có hai loại màn hình cảm ứng
mà hầu hết tất cả chúng ta đều biết: màn hình cảm ứng điện trở và màn
hình cảm ứng điện dung. Chúng xuất hiện trên các
smartphone hay máy tính bảng đắt tiền cho phép hồi đáp với những cụ chạm
nhẹ nhất, hỗ trợ đa điểm và thường đáp ứng cao (trừ phi bạn đeo găng
tay). Hoặc, có loại cho thời gian hồi đáp lâu hơn một chút, cần lực ấn
mạnh hơn, không hỗ trợ đa điểm nhưng lại làm việc với bất kể dụng cụ nào
chạm vào.
Nếu là một tín đồ công nghệ đặc biết với
các dòng điện thoại cảm ứng từ trước tới nay thì có thể bạn đã được
trải nghiệm những khác biệt này. Hãy nghĩ xem điều gì đã tạo nên sự khác
biệt giữa các loại màn hình cảm ứng, vì sao màn hình chiếc iPhone 4 lại
không cảm nhận được ngón tay đeo găng, hay tại sao ta lại không thể sử
dụng các loại bút cảm ứng cũ cho iPad?
Tất cả những thắc mắc này có thể được
giải đáp bằng hai yếu tố: trở kháng và dung kháng. Sự khác nhau giữa hai
công nghệ cảm ứng này trả lời cho tất cả các câu hỏi bên trên. Dưới đây
là giải thích đơn giản về cách hoạt động của hai loại màn hình cảm ứng
này.
Màn hình cảm ứng
Mặc dù đang ngày càng trở nên phổ thông
nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc, màn hình cảm ứng là một phát
minh mới. Màn hình cảm ứng đầu tiên được phát minh từ những năm 1960 và
đã trả qua rất nhiều thay đổi và cải tiến để trở thanh màn hình cảm ứng
như ta thấy ngày nay.
Các màn hình cảm ứng không chỉ giới hạn
trên những chiếc smartphone và máy tính bảng mà chúng được sử dụng ở mọi
lĩnh vực, mọi góc cạnh cuộc sống, từ máy ATM, thiết bị bán hàng, hệ
thống định vị, máy chơi game cầm tay và thậm chí là touchpad trên những
chiếc laptop. Màn hình cảm ứng đang dần dần đi vào cuộc sống vì vậy hiểu
được cách thức hoạt động của chúng cũng giúp ích cho chúng ta.
Màn hình cảm ứng điện trở
Màn hình cảm ứng điện trở là loại màn
hình cảm ứng phổ biến nhất. Trừ những mẫu smartphone hiện đại và các máy
tính bảng thì hầu hết các loại màn hình cảm ứng ta gặp thực ra là cảm
ứng điện trở. Màn hình cảm ứng điện trở tất nhiên phụ thuộc vào trở
kháng. Áp lực bạn đặt lên gây ra hồi đáp cho màn hình.
Một màn hình cảm ứng được tạo ra từ hai
lớp cơ bản được đặt cách nhau một khoảng trống. Hai lớp này đều có một
lớp vỏ tại mặt giáp giữa hai lớp trong khoảng trống, giống như hai mẩu
bánh mỳ sandwich áp vào nhau. Khi hai lớp vỏ này chạm vào nhau, một điện
áp phát sinh được truyền đi và được xử lý như một cú chạm tại vị trí
đó.
Vì vậy khi ngón tay, bút cảm ứng hoặc
bất kỳ dụng cụ nào khác chạm vào màn hình cảm ứng điện trở, nó tạo một
áp lực ở lớp trên và được truyền động xuống lớp kế cận làm nảy sinh tín
hiệu. Do đó, bạn có thể sử dụng bất kỳ vật gì bạn muốn tác động lên màn
hình cảm ứng điện trở để làm giao diện cảm ứng hoạt động; một ngón tay
đeo găng, một mẩu gỗ, móng tay miễn là gây đủ áp lực lên điểm chạm để
kích hoạt cơ chế và cú chạm sẽ được ghi nhận.
Với lý do tương tự, màn hình cảm ứng
điện trở đòi hỏi áp lực nhẹ để ghi nhận cú chạm và không phải luôn luôn
đáp ứng được nhanh như màn hình cảm ứng điện dung. Ngoài ra, cấu trúc đa
lớp làm cho hiển thị hình ảnh ít sắc nét, độ tương phản thấp hơn so với
màn hình cảm ứng điện dung. Trong khi hầu hết các màn hình cảm ứng điện
trở không cho phép đa điểm như phóng to bằng hai ngón tay thì chúng có
thể ghi nhận cú chạm từ một ngón tay khi ngón khác đã đang chạm ở một vị
trí khác trên màn hình.
Màn hình cảm ứng điện trở cũng đang có
những cải tiến lớn vài năm qua và ngày nay rất nhiều smartphone cảm ứng
tầm trung sở hữu một màn hình cảm ứng điện trở có độ chính xác không
thấp hơn các thiết bị cao cấp. Một số thiết bị sử dụng công nghệ cảm ứng
điện trở gần đây như Nokia N800, Nokia N97, HTC Tattoo và Samsung Jet.
Một thiết bị nổi tiếng khác sử dụng công nghệ cảm ứng điện trở là
Nintendo DS, thiết bị chơi game đầu tiên sử dụng công nghệ này.
Màn hình cảm ứng điện dung
Điều bất ngờ là, thực ra thì màn hình
cảm ứng điện dung còn được phát minh trước. Màn hình đầu tiên được phát
triển trước màn hình cảm ứng điện trở khoảng 10 năm. Tuy nhiên, những
màn hình cảm ứng điện dung hiện nay có độ chuẩn xác cao hơn và hồi đáp
nhanh khi được chạm nhẹ bằng ngón tay.
Trái ngược với cảm ứng điện trở phụ
thuộc vào áp lực cơ học từ ngón tay hay bút cảm ứng, màn hình cảm ứng
điện dung sử dụng các thuộc tính điện từ của thân thể con người. Một màn
hình cảm ứng điện dung thường được tạo bởi một lớp cách điện như kính,
bao phủ bởi một vật liệu dẫn điện trong suốt ở mặt bên trong. Do cơ thể
người dẫn điện nên màn hình điện dung có thể sử dụng tính dẫn điện này
làm đầu vào. Khi bạn chạm vào một màn hình cảm ứng điện dung bằng ngón
tay, bạn gây nên sự thay đổi tại trường điện từ của màn hình.
Thay đổi này được ghi nhận, và vị trí cú
chạm được xác định bởi một bộ xử lý. Điều này được thực hiện bằng một
số công nghệ khác nhau, nhưng tất cả các công nghệ này đều dựa vào sự
thay đổi điện từ do cú chạm ngón tay gây ra. Điều này là nguyên nhân bạn
không thể sử dụng một màn hình cảm ứng điện dung khi đeo găng tay cách
điện. Tương tự với các bút cảm ứng.
Do các màn hình điện dung chỉ được tạo
từ một lớp chính mà ngày càng mỏng hơn khi công nghệ nâng cao, thì những
màn hình này không chỉ nhạy cảm và chuẩn xác hơn mà còn hiển thị sắc
nét hơn, giống như chiếc iPhone 4S. Và tất nhiên, những màn hình cảm ứng
điện dung cũng có thể hỗ trợ đa điểm, nhưng chỉ khi sử dụng vài ngón
tay một lúc. Nếu một ngón tay đang chạm vào màn hình, màn hình sẽ không
thể cảm nhận được cú chạm khác một cách chính xác.
Kết luận
Đây là những khác biệt cơ bản giữa hai
loại màn hình cảm ứng thông dụng hiện nay. Đa số các thiết bị cao cấp
thường coi công nghệ cảm ứng điện dung như lựa chọn số một do tính hồi
đáp cao và cho phép hiển thị hình ảnh sắc nét. Nhưng công nghệ cảm ứng
điện trở vẫn có những ưu điểm nhất định.
NamNguyen (Theo MakeUseOf) |
Nhận xét
Đăng nhận xét