Web 3.0 đã xuất hiện
Nếu  bạn nghĩ rằng thế hệ Web 2.0 vẫn thực sự chưa hoàn hảo và World Wide  Web vẫn là một đám mây chứa đầy những thông tin vô định hình, thì đó  chính là điều mà thế hệ Web 3.0 khắc phục được - xóa đi lớp mây ấy bằng  những trật tự nhất định.  
Bước  đột phá mới của kênh phương tiện 
| Web 3.0 còn được biết đến với cái tên Semantic Web (Web ý thức) | 
Đây  cũng chính là đề tài nóng bỏng nhất mà ngành khoa học máy tính  hiện nay đang ngày đêm dõi theo, trong đó điển hình là Google và Yahoo  hoặc những công ty mới lập nhưng chuyên sâu là Garlik, Metaweb  Technologies, Powerset, ZoomInfo, Radar Networks… cùng nhiều tập đoàn  lớn trên thế giới như Citigroup, Eli Lilly, Kodak và Oracle. Ước tính,  nguồn lợi của các ngành sản xuất và dịch vụ hoạt động trên cơ sở Web 3.0  sẽ tăng lên mức 50 tỉ USD vào năm 2010, hơn hẳn mức 7 tỉ USD hiện nay.
Web 3.0 còn được biết đến với cái tên Semantic Web  (Web ý thức) và sẽ được trang bị những tính năng lập luận cao. Nói một  cách khác, nguồn thông tin trong những thư mục thuộc thế hệ mới của web  sẽ được chuyển hoá thành nguồn dữ liệu mà máy tính có thể đọc và tự ước  lượng. Chỉ bằng cách này, web sẽ trở nên thông minh hơn trong việc tiếp  nhận thực hiện những công việc mà chúng ta hôm nay vẫn thao tác bằng  tay, chẳng hạn chọn ra nhà hàng gần nhất, đặt vé chuyến  bay tốt nhất  hay mua chiếc CD có giá thấp nhất.
Thuật ngữ  Semantic Web đã ra đời năm 2001 bởi Berners-Lee và hai đồng tác giả của  cuốn sách Scientific American là James Hendler và Ora Lassila. Để  Semantic Web có thể vận hành, nguồn thông tin trực tuyến cần phải đọc  được bởi các thiết bị kỹ thuật số. Những dịch vụ trên mạng như Google có  thể làm tốt công việc sàng lọc thông tin từ nhiều trang web, song người  ta vẫn muốn có được nhiều hơn khi xem kết quả tìm kiếm.
Phiên bản web mới của Berners-Lee tiến hành như một chuỗi  các cơ sở dữ liệu nối tiếp nhau với nguồn thông tin tập trung theo một  biểu mẫu đã được xây dựng từ trước. Bên trong kết cấu ấy được bổ sung  các hệ thống ý thức để máy tính có thể hiểu được. Chẳng hạn, khi bạn  dùng công cụ Google để tìm kiếm một người nào đó thì trong Web 3.0, nhân  vật ấy sẽ được miêu tả đầy đủ với nguồn thông tin rất dồi dào, từ ngày  sinh, chức danh trong công việc, địa chỉ nhà, sở thích đến thứ tự trong  gia phả.
Người sử dụng Semantic Web sẽ có được  những kết nối rõ ràng nhất với nơi làm việc, người thân, lịch làm việc  và những sở thích của nhau. Giả sử muốn sắp xếp một bữa tiệc sau một hội  nghị, trước tiên bạn sẽ lướt qua cuốn sổ địa chỉ và gửi email xem ai có  thể tham gia hội nghị, sau đó gửi tiếp thư mời dự tiệc. Kế đó, tất cả  khách mời cùng chủ tiệc cùng nhau bàn luận về thời gian và địa điểm ăn  tiệc qua email.
Trong Semantic Web, phần mềm trợ lý  của bạn sẽ biết trước những gì sẽ liên quan đến việc sắp xếp bữa tiệc  nên thay vì bạn phải gửi hàng tá email, nó sẽ chắt lọc những đối tượng  dự hội nghị rồi lên danh sách khách dự tiệc. Thậm chí nó còn có thể  thông qua cuốn sổ địa chỉ của bạn để xem những ai đang sống ở đâu và lúc  nào tổ chức tiệc là phù hợp nhất. Một khi danh sách khách mời đã được   bạn chấp thuận, phần mềm trợ lý sẽ xem xét địa điểm tổ chức tiệc, cuối  cùng sẽ gửi chỉ dẫn đến mọi người.
Thậm chí với  GPS, nó còn giúp bạn biết còn bao lâu nữa một vị khách đến trễ sẽ có  mặt. Khả năng kết nối với nguồn tin cá nhân bằng những cách thức hữu  hình và vô hình chính là những gì tạo nên uy lực của Web 3.0.
Tương lai của Web TV
Mang một phiên bản thật sự của Semantic Web vào thế  giới internet là một vấn đề mang tính nhân quả. Để làm được điều ấy,  trước tiên cần có đủ những dữ liệu được chuyển hoá thành dạng máy tính  có thể đọc được, gọi là RDF (Resource Description Framework) với đủ  lượng siêu dữ liệu được trang bị để giúp bản thân nó trở nên có ý nghĩa.
Hiện tại, những tập đoàn dược phẩm lớn như Eli Lilly  đang kiểm nghiệm bằng cách thêm phân tầng semantic vào nguồn dữ liệu  điều chế thuốc nhằm giúp các nhà khoa học tìm được sự liên kết giữa các  phân tử thuốc và các loại bệnh. Còn Amazon đang quyết tâm ứng dụng công  nghệ Semantic trong việc giúp khách hàng tra tìm cơ sở dữ liệu, Kodak  muốn việc đánh thẻ tag bằng Semantic sẽ giúp người chụp ảnh quản lý tốt  các tập tin hình ảnh trực tuyến.
Riêng CIA vừa nạp  vào bộ nhớ của  mình những kết quả nghe lén đường dây điện thoại tại hải  ngoại theo dạng Semantic nhằm dễ dàng định dạng mối liên hệ giữa các sự  kiện, nhân vật và nơi chốn với hy vọng phát hiện được những nguy cơ  khủng bố trước khi quá muộn.
Cuộc  truy tìm những trang quảng cáo trực tuyến hoàn hảo
Một trong số những ứng dụng quảng cáo đầu tiên có định  dạng Web 3.0 được đề xuất là sản phẩm do Radars Networks lập trình. Theo  Spivack - người đồng sáng lập công ty này thì đây sẽ là một chương  trình được hỗ trợ nhiều tính năng tiên tiến nhất trong khả năng kết nối  và tương tác, giúp khách hàng có thể chọn lựa những sản phẩm và dịch vụ  phù hợp nhất với kế hoạch sử dụng của họ, sở thích của họ và với đối  tượng họ dùng chung.
Chẳng hạn khi bạn đặt câu hỏi:  “Tôi nên chọn nơi nào tại Mỹ để trượt tuyết?” thì một trong những câu  trả lời sẽ là ngọn núi Alta, bang Utah. Khi bạn click vào địa điểm đó,  đi kèm với thông tin  về  nơi chốn sẽ là danh sách các khách sạn kèm  nhiều hình ảnh, video clip, bản đồ giao thông công cộng và cả những nhận  xét của những người từng đến Alta.
Một khi phần  mềm dạng này được ứng dụng, các công ty sẽ có cơ sở để bổ sung thêm  nhiều thông tin số vào mẫu quảng cáo của mình, từ đó sẽ tạo nên những  nguồn tin thương mại hoàn hảo và hoàn chỉnh hơn cho mọi đối tượng khách  hàng.
Cùng với sự xuất hiện của Web 3.0, tính siêu  liên kết của mạng thông tin ngày càng chặt chẽ và sẽ làm tăng tính hấp  dẫn của thế giới internet. Dẫu hiện giờ đang là những ngày tháng sơ khai  một phiên bản web mới, nhưng đã được xuất hiện những ứng dụng đầy triển  vọng của Radar Networks, Google Base và Flickr.
(theo TTO)
 
Nhận xét
Đăng nhận xét